LAMIVUDIN 150mg

(5)

Hộp 10 vỉ x 10 viên

DANH MỤC: KHÁNG VIRUS

Thành phần công thức thuốc: Mỗi viên nén bao phim chứa:

  • Thành phần hoạt chất:

Lamivudin.......................150mg

  • Thành phần tá dược:

Avicel 101, lactose, P.V.P K30, croscarmellose natri, aerosil, magnesi stearat, H.P.M.C 606 , bột talc, titan oxyd, P.E.G 6.000, màu oxid sắt đỏ.

Phối hợp với các thuốc kháng retrovirus khác để điều trị nhiễm HIV-1.

Điều trị HIV/AIDS: Phải kết hợp ít nhất hai thuốc kháng retrovirus khác. Lamivudin (3TC) kết hợp với 2 nucleosid khác như sau:

+Người lớn:

- Phác đồ hàng đầu: Stavudin (d4T) + lamivudin (3TC) + nevirapin (NVP).

- Phác đồ thay thế: d4T + 3TC + EFV (enfavirenz); hoặc AZT (zidovudin) + 3TC + NVP; hoặc AZT + 3TC + EFV.

- Liều lamivudin cho người lớn uống một liều duy nhất 300mg hàng ngày hoặc 150mg/lần x 2 lần/ngày.

 Người lớn < 50kg: 4mg/kg/lần; ngày 2 lần (tối đa; 150mg/lần, ngày 2 lần).

 Thiếu niên 12 đến 16 tuổi: 150mg lamivudin và 300mg zidovudin cách 12 giờ một lần cho người cân nặng 50kg trở lên; không có tư liệu đầy đủ để chỉ dẫn liều dùng cho thiếu niên dưới 50kg thể trọng.

  Liều lượng cho người suy giảm chức năng thận: Phải giảm liều ở người bệnh 16 tuổi trở lên có độ thanh thải creatinin giảm. Ảnh hưởng của suy thận trên thải trừ lamivudin ở trẻ em và thiếu niên dưới 16 tuổi chưa được biết rõ, nên hiện nay không có chỉ dẫn về liều cho người bệnh ở nhóm tuổi này có độ thanh thải creatinin giảm. Điều chỉnh liều dùng theo độ thanh thải creatinin (CC): - CC > 50ml/phút: 150mg, ngày 2 lần. - CC: 30 - 49ml/phút: 150mg, ngày 1 lần. - CC: 15 - 29ml/phút: ngày đầu tiên 150mg, rồi những ngày sau 100mg, ngày 1 lần. - CC: 5 - 14ml/phút: ngày đầu tiên 150mg, rồi những ngày sau 50mg, ngày 1 lần. - CC < 5ml/phút: ngày đầu tiên 50mg, rồi những ngày sau 25mg, ngày 1 lần.  + Suy gan:

Dữ liệu thu được ở những bệnh nhân suy gan mức độ vừa đến nặng cho thấy dược động học của lamivudin không bị ảnh hưởng đáng kể bởi việc rối loạn chức năng gan. Dựa trên những dữ liệu này, không cần thiết điều chỉnh liều ở những bệnh nhân bị suy gan vừa hoặc nặng trừ khi kèm theo suy thận.

 Người già: Không có dữ liệu cụ thể; Tuy nhiên, nên chăm sóc đặc biệt cho lứa tuổi này do sự thay đổi tuổi tác nên bị suy giảm chức năng thận và thay đổi thông số huyết học.

 Cách dùng thuốc kháng retrovirus: Trong liệu pháp kháng retrovirus, thuốc chọn lọc là những thuốc tương tự nucleosid. Hiện nay chưa biết rõ lúc nào là thời điểm tốt nhất để bắt đầu điều trị với thuốc kháng retrovirus. Liệu pháp kháng retrovirus cũng làm tăng thời gian sống sót ở người bệnh có số lượng tế bào CD4 dưới 500 trong 1 mm3. Liệu pháp này cũng có thể dùng cho những người bệnh có mật độ HIV trên 30.000/ml huyết tương, không phụ thuộc vào số lượng tế bào CD4, vì mật độ HIV là một yếu tố tiên lượng sự tiến triển của bệnh. Mật độ virus cao hơn dẫn đến giảm tế bào CD4 nhanh hơn. Mục tiêu điều trị là đạt mật độ HIV ở mức không thể phát hiện được. Liệu pháp chuẩn hiện nay gồm 2 thuốc tương tự nucleosid kháng retrovirus, cùng với một thuốc ức chế protease. Sự tuân thủ điều trị có tính quyết định cho hiệu lực duy trì của thuốc.

Người bệnh điều trị không có kết quả (tăng gấp 3 lần mật độ virus, hoặc giảm số lượng tế bào CD4, hoặc tiến triển thành bệnh AIDS) phải chuyển sang dùng một kết hợp thuốc kháng retrovirus khác. Phải lựa chọn kết hợp thuốc mới sao cho nguy cơ kháng chéo với những thuốc đã dùng là tối thiểu. Khi liệu pháp cũ không có tác dụng cần cho thêm thuốc mới, nguyên tắc là cho thêm không chỉ một thuốc, mà kết hợp 2 thuốc mới. Xem xét nguy cơ của tương tác thuốc khi điều trị với các thuốc kháng retrovirus.

- Bao giờ cũng phải dùng lamivudin kết hợp với ít nhất một thuốc kháng retrovirus khác. '- Lamivudin và chế phẩm kết hợp cố định chứa lamivudin và zidovudin được dùng uống, lúc đói hoặc lúc no (uống lúc no làm hấp thu chậm). Bệnh nhân phải uống thuốc đúng liều đúng giờ, không được tự ý thay đổi liều, thay thuốc, bỏ thuốc mà không có ý kiến của thầy thuốc. Cần theo dõi liên tục độc tính của thuốc và tiến triển lâm sàng, định kỳ xác định tải lượng virus và số lượng tế bào TCD4+ và thay đổi phác đồ điều trị nếu cần.